Kế toán tài chính

Hệ thống báo cáo tài chính trong doanh nghiệp sử dụng cho phân tích tài chính

Chia sẻ ngay

Hệ thống báo cáo tài chính của DN Việt Nam được trình bày và cung cấp thông tin theo quy định của cơ quan chức năng có liên quan tại Việt Nam. Sau một quá trình hình thành và phát triển với sự thay đổi của nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường như hiện nay thì các chuẩn mực và quy định về lập và trình bày báo cáo tài chính của Việt Nam cũng có nhiều sự tương thích với các chuẩn mực quốc tế về kế toán.

Tùy theo góc độ tiếp cận với báo cáo tài chính thì hệ thống báo cáo tài chính có thể hiểu theo những quan điểm khác nhau. Theo cách tiếp cận về chức năng cung cấp thông tin của hệ thống báo cáo tài chính thì theo Ngô Thế Chi (2007): “
Báo cáo tài chính là phương pháp tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các chỉ tiêu kinh tế tài chính tổng hợp, phản ánh có hệ thống tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản của DN, tình hình và hiệu quả sản xuất kinh doanh, tình hình lưu chuyển tiền tệ và tình hình quản lý, sử dụng vốn…của DN trong một thời kỳ nhất định vào một hệ thống mẫu biểu quy định thống nhất ”

Báo cáo tài chính có chức năng là tổng hợp, phản ánh và thuyết minh các số liệu kinh tế tài chính được tổng hợp từ các sổ kế toán cho các đối tượng bên trong, bên ngoài DN có thể tiếp cận số liệu một cách hiệu quả nhất. Hay, theo các yếu tố cần trình bày trong hệ thống báo cáo tài chính tại chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01:

Báo cáo tài chính phản ảnh tình hình tài chính của DN bằng cách tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế, tài chính có cùng tính chất kinh tế thành các yếu tố của báo cáo tài chính. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến việc xác định tình hình tài chính trong Bảng cân đối kế toán là tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến đánh giá tình hình và kết quả kinh doanh trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là doanh thu, thu nhập khác, chi phí và kết quả kinh doanh ”.

Tuy các khái niệm về báo cáo tài chính có khác nhau do các góc độ tiếp cận khác nhau nhưng về bản chất thì không có sự khác nhau. Tóm lại, các cáo tài chính là một phương pháp kế toán, là sản phẩm cuối cùng của hoạt động kế toán được lập trên cơ sở nguyên tắc và phương pháp riêng của kế toán.
Theo Luật Kế toán thì hệ thống báo cáo tài chính DN Việt Nam hiện nay gồm 4 báo cáo: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.

Hiện nay, theo nội dung và phạm vi lập báo cáo tài chính thì báo cáo tài chính có ba loại: báo cáo tài chính riêng, báo cáo tài chính tổng hợp và báo cáo tài chính hợp nhất:
– Báo cáo tài chính riêng được lập tại các đơn vị hạch toán kế toán độc lập.
– Báo cáo tài chính tổng hợp được lập tại các đơn vị có nhiều đơn vị chi nhánh hay các đơn vị trực thuộc mà các đơn vị này hạch toán phụ thuộc công ty. Báo cáo tài chính tổng hợp sẽ được lập và trình bày trên cơ sở tổng hợp các báo cáo tài chính riêng của các đơn vị trực thuộc.
– Báo cáo tài chính hợp nhất được lập tại các tập đoàn, tổng công ty hoạt động theo mô hình mẹ – con nhằm tổng hợp thông tin của tập đoàn như một thực thể pháp lý duy nhất.

Ngoài ra, theo tính chất và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp BCTC được chia thành hai loại: báo cáo tài chính năm và báo cáo tài chính giữa niên độ.

Báo cáo tài chính năm là các báo được lập định kỳ vào cuối các năm tài chính gồm: Bảng cân đối kế toán (mẫu số B 01- DN), báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (mẫu số B 02-DN), báo cáo lưu chuyển tiền tệ (mẫu số B 03 –DN), thuyết minh báo cáo tài chính (mẫu B 09 – DN).

Báo cáo tài chính giữa niên độ là báo cáo được lập định kỳ vào cuối các kỳ không phải cuối năm gồm báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ và báo cáo tài chính giữa niên độ dạng tóm lược.

Trường Nguyễn

Nguồn Tạp chí kế toán Việt Nam

 

Đọc thêm


Chia sẻ ngay

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

.
.
.
.